Sau khi xã hội nguyên thủy tan rã, vào cuối thiên niên kỷ thứ IV trước công nguyên xã hội loài người chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ của chế độ chiếm hữu nô lệ. Xã hội bắt đầu với sự phân hóa giai cấp, xuất hiện người giàu và kẻ nghèo, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Nhân loại chuyển sang một giai đoạn mới với sự phát triển cao hơn về mọi mặt. Một số nền văn minh được hình thành, các môn khoa học, triết học, kiến trúc, nghệ thuật... đạt được một số thành tựu đáng kể. Một số nước đã có hệ thống chữ viết lần đầu tiên xuất hiện. Nghệ thuật âm nhạc cũng có một số tiến bộ vượt bậc, khả năng biểu hiện của âm nhạcphong phú hơn, rộng rãi hơn, chuyển tải được những tư tưởng, hình tượng và những suy nghĩ, khát vọng của con người trong xã hội. Âm nhạc lúc này đã được tách ra từ toán học và được nhìn nhận như một bộ môn nghệ thuật. Tiêu biểu cho những nền âm nhạc phát triển lúc bấy giờ là một số quốc gia của phương Đông và phương Tây như: AiCập, Ấn Độ, Trung Quốc, Hylạp - La Mã...
1. ÂM NHẠC AI CẬP
Ai Cập được coi là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm và rực rỡ nhất của nhân loại. Nền văn minh của Ai Cập bắt đầu từ 4000 năm trước công nguyên. Nói đến Ai Cập người ta nghĩ ngay đến những công trình kiến trúc của các đền đài nguy nga lộng lẫy, của những kim tự tháp sừng sững đứng giữa trời như cố ý thách thức vđi thời gian (Kim tự tháp lớn nhất là kim tự tháp Kêốp cao 146m với mỗi cạnh đáy dài 230m).
Ai Cập ở vùng đông bắc châu Phi, có dòng sông Nin chảy qua với độ dài 700km. Lịch sử của Ai Cập gắn liền với dòng sông này, như nhà sử học Hêrôđốt đã viết: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.
Bên cạnh những thành tựu về kiến trúc, y học, thiên văn... thì thơ ca và âm nhạc cũng hưng thịnh. Điều đặc biệt là âm nhạc của Ai cập luôn gắn liến với nhảy múa và thơ ca. Nội dung chủ yếu là ca ngợi sự kính trọng các vị hoàng đế Pha-ra-ông và các thần linh, bên cạnh đó là thân phận của những người dân nô lệ cũng được đề cập đến. Cùng với những bài hát về lao động, sản xuất, đào kênh, đi biển, đóng thuyền... còn có những bài hát đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội, mô tả sự phản kháng ách áp bức bóc lột và cả những sự bất công trong xã hội Ai Cập lúc bấy giờ.
Âm nhạc AiCập cổ đại gồm có: âm nhạc dân gian, âmnhạc chuyên nghiệp, âm nhạc nghi lễ tôn giáo(phục vụ trong các đền miếu) và âm nhạc trần tục phục vụ trong các lâu đài và cung điện. Chiếm ưu thế lúc này vẫn là các bài hát ngợi ca(bàiHim) các vị thần linh, và những người có quyền lực cao nhất. Trong cung đình đã có những dàn hợp xướng lớn và những đội nhạc để phục vụ cho các bữa yến tiệc và hội hè. Còn những cuộc hành quân của quân đội thì cũng có âm nhạc để dành riênh cho lực lượng này.
Người dân Ai Cập cũng đã sáng tạo ra nhiều loại nhạc cụ khá phong phú như đàn Hác-pơ hình cánh cung (là nhạc cụ “vua” của người AiCập), một số nhạc cụ hơi kiểu như Oboe, Clarinette, đàn Luth, trống, lục lạc...
2. ÂM NHẠC ẤN ĐỘ
Ấn Độ là một bán đảo hình tam giác, nằm ở phía nam châu Á nhưng hầu như ngăn cách với châu lục này bởi dải núi cao nhất thế giới - Himalaya - nên còn được gọi là một “tiểu lục địa”. Ấn Độ được chia làm hai miền Nam - Bắc. Những vùng đồng bằng rộng lớn ở phía bắc của Ấn Độ được tạo nên bởi hai con sông, đó là sông Hằng (Ganga) và sông Ấn (Indus). Sông Ấn (Indus) chính là cái nôi của văn minh Ấn Độ mà dân bản địa gọi là sông Sindhu. Nước láng giềng Iran phát âm là Hindu và người HiLạp gọi tên sông là Indus, và tên nước là India.
Ấn Độ là một trong những nước có nền văn minh vĩ đại từ thời cổ đại. Khoảng 3000 năm trước công nguyên, Ấn Độ đã bắt đầu hình thành chữ viết. Từ rất sớm người Ấn Độ đã biết chia lịch với một năm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ. Người Ấn Độ cũng đã sáng tạo ra 10 chữ số mà ngày nay chúng ta dùng rộng rãi trong toán học. Ấn Độ là quê hương của đạo Phật và đạo Bàlamôn - đạo Hinđu.Về văn học Ấn Độ có những tập kinh Vêđa là những bài Him chủ yếu nói về tôn giáo, và rất nhiều thông tin, kiến thức quan trọng khác lúc bấy giờ. Ngoài ra còn phải kể đến hai bộ sử thi đồ sộ là Mahabharata(gồm220.000 câu) và Ramayana(gồm 48.000 câu).
Về âm nhạc người Ấn Độ đã sáng tạo ra cách ghi nốt nhạc của mình theo chữ Phạn để đánh dấu đặt tên các âm như Xa là âm Do, Ri-Re, Ga-Mi... Hệ thống ghi nốt nhạc bao gồm các dòng kẻ, các nét gạch và các dấu chấm. Có một số dấu hiệu riêng về tiết tấu và sự trang hoàng ...
Vào thời kỳ này người Ấn Độ đã đánh giá cao vai trò thẩm mỹ và tác dụng của âm nhạc trong cuộc sống. Không chỉ con người mà cả động vật cũng chịu sự tác động của âm nhạc. Rất nhiều điệu nhạc và cả những câu thần chú được biễu diễn để chinh phục rắn và voi. Thậm chí âm nhạc nhiều khi còn bị cấm bởi họ cho là nguyên nhân gây ra các đám cháy. Người dân Ấn Độ tin rằng âm nhạc được sinh ra từ thần thánh.
Âm nhạc dân gian phản ánh trực tiếp cuộc sống hằng ngày của nhân dân Ấn Độ, với nhiều thể loại phong phú gắn liền với lao động và những cảm xúc của con người, nhưng vẫn không thiếu những chủ đề về triết học, đạo lý sâu sắc và anh hùng ca. Âm nhạc cung đình mang tính chất tượng trưng, qui ước, nghi lễ, nổi bật với sự lộng lẫy và kiểu cách. Những bài hát nghi lễ ca ngợi tôn giáo được biễu diễn trong các đình chùa, miếu mạo. Trong nền âm nhạc chuyên nghiệp đã có cả khí nhạc lẫn thanh nhạc.
Đặc trưng của âm nhạc Ấn Độ là âm nhạc một bè. Nhưng cũng đã phát hiện ra một số mầm mống của âm nhạc nhiều bè theo kiểu Bourdon. Mối quan hệ giữa âm nhạc và nhảy múa kết hợp với các động tác là một trong những nét điển hình nhất của âm nhạc Ấn Độ.
Tính độc đáo của âm nhạc nhạc Ấn Độ nổi lên ở giai điệu lẫn tiết tấu. Nó có nhiều loại giai điệu khác nhau - hát nói, nói nhanh và liên tục, loại êm đềm đầy sức biểu hiện, loại trang hoàng hoặc biến tấu. Tiết tấu thì lại rất phong phú, nhiều màu nhiều vẻ, với các đảo phách xen kẽ giữa nhịp hai phách và ba phách. Hệ thống địệu thức trong âm nhạc Ấn Độ gồm những điệu thức 7 bậc và 5 bậc, trong đó điệu thức 5 bậc là nền tảng (điệu thức 5bậc của Ấn Độ hoàn toàn khác với điệu thức ngũ cung của Trung Quốc). Hệ thống điệu thức 7 bậc được xây dựng trên những quãng đặc biệt chia quãng tám thành 22 phần không đều nhau, với tên gọi giống điệu thức 7 bậc của phương Tây: Sa, Ri, Ga, Ma,Pa,Đha,Ni.
Về nhạc khí thì ngay từ thời Bharata, người Ấn đã biết phân loại nhạc khí thành 4 họ mà phương Tây mới áp dụng vào đầu thế kỷ XX: dây, hơi, màng rung và toàn thân vang. Nhạc cụ hơi gồm có các loại sáo dọc và ngang, nhạc cụ gõ có trống, cồng, chũm chọe... các nhạc cụ dây là đàn Vi-na, Xi-ta (không có vĩ kéo), Ra-va-nát, Xa-răng-ga và Ra-báp(loại có vĩ kéo)...
3. ÂM NHẠC TRUNG QUỐC
Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của phương Đông cổ đại. Theo truyền thuyết, thời viễn cổ ở Trung Quốc có một vị thủ lĩnh mà đời sau thường nhắc đến đó là Phục Hy(tương truyền, Phục Hy là người đã chế ra cây đàn sắt 50 dây). Đến nữa đầu thiên niên kỷ thứ III(Tr.c.n) xuất hiện một thủ lĩnh bộ lạc gọi là Hoàng Đế.Vị Hoàng Đế này được coi là thủy tổ của người Trung Quốc(nhiều thành tựu về lý thuyết âm nhạc cũng được ra đời dưới thời Hoàng Đế). Tiếp theo dòng dõi của Hoàng Đế là những vị vua Nghiêu và Thuấn là những vị vua tốt nhất trong lịch sử Trung Quốc. Như vậy Trung Quốc đã có một nền văn minh xuất hiện từ những thiên niên kỷ thứ III - IV trước công nguyên. Chữ viết của Trung Quốc được xuất hiện từ đời Thương (TKXVI - XII trước CN). Tác phẩm văn học đầu tiên của Trung Quốc được sáng tác trong khoảng 500 năm đó là tập thơ ca Kinh Thi, xuất hiện khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên. Thời đó, thơ cũng là lời của bài hát nên các vị vua thường sai các viên quan phụ trách về âm nhạc của triều đình sưu tầm thơ ca của các địa phương để phổ nhạc.
Người Trung Quốc có khát vọng khám phá ra bản chất của âm nhạc. Họ xác định âm nhạc có một mối liên hệ với cuộc sống xã hội, tư tưởng và tâm trạng con người. Vì thế âm nhạc được sử dụng trong đấu tranh giữa cái thiện và ác, giữa các khuynh hướng khác nhau trong triết học. Khổng Tử (551 - 479 TCN), một nhà triết học Trung Quốc thời cổ đại luôn đề cao vai trò của âm nhạc trong cuộc sống và xã hội. Ông cho rằng âm nhạc đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục con người. Ông viết: “Lòng người cảm điều thiện thì do thiện thanh ứng, cảm điều ác thì ác thanh ứng. Sự thiện ác của nhạc là bởi lòng người mà sinh ra, rồi lại cảm lòng người mà khiến cho thành ra thiện hay ác”. Không những thế âm nhạc còn có tác động đến chính trị của một quốc gia, ông cho rằng: “Nhạc cũng như lễ, rất có ảnh hưởng về đường chính trị. Thanh âm chi đạo, dữ chính thông hỷ: đạo thanh âm thông với chính trị. Hễ chính trị hay thì nghe tiếng nhạc hay. Chính trị dở thì nghe tiếng nhạc dở”.
Các quan điểm thẩm mỹ âm nhạc của người Trung Quốc xác nhận mối quan hệ của âm nhạc với thiên nhiên và với những hiện tượng của vũ trụ. Những quy luật của âm nhạc được xem xét trong môi quan hệ với thiên văn học.
Âm nhạc Trung Quốc đã được tách riêng để dùng vào một vài lĩnh vực khác nhau với mục đích, tính cách và vị trí xã hội. Âm nhạc cung điện và đình chùa, miếu mạo nổi bật với tính chất trang trọng và nghi lễ. Đó là những bàiHim ca ngợi, tán dương, những điệu nhảy và cả những cảnh kịch câm. Chúng mang tính tượng trưng về tôn giáo và được phụ họa với khí nhạc. Dân ca đóng một vai trò quan trọng, rất nhiều bài phản ánh các sự kiện lịch sử về chiến tranh, các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Có những bài vang lên sự phản đối, chống lại sự bất công và nói lên lòng căm thù bọn giàu có. Bên cạnh đó có những bài ca ngợi cuộc sống hằng ngày của người dân, là những bức tranh thơ mộng về thiên nhiên, xứ sở.
Âm nhạc Trung Quốc có một nét độc đáo được nhấn mạnh ở chỗ cơ sở điệu thức không có bán cung - điệu thức năm cung. Đến thế kỷ III trước công nguyên thêm vào hai bậc nữa nên có hàng âm bảy bậc. Ởthời kỳ này Trung Quốc đã khám phá ra được mối quan hệ toán học giữa các quãng 8 đúng, 5 đúng và 4 đúng. Trên cơ sở đó họ đã chế tạo ra một nhạc cụ - nhạc cụ Lui gồm 12 ống có độ dài khác nhau tạo nên 12 âm cromatic. Đó cũng là hệ thống 12 luật lữ được ra đời từ thời Hoàng Đế (2697 - 2597 TCN). Các nhà lý luận âm nhạc Trung Quốc xuất hiện sớm hơn nhiều so với các nhà lý luận âm nhạc châu Âu. Từ thế kỷ IV - V trước công nguyên, họ đã nghiên cứu và đề ra một số vấn đề về luật điều hòa âm thanh.
Về nhạc khí, ngoài cây đàn sắt do Phục Hy chế tạo từ thời cổ xưa còn có 124 nhạc khí được chia làm 8 chủng loại xuất hiện từ thời Chiến Quốc. Trong số đó có 32 khánh, 64 chuông và 1 chuông lớn - nhờ một kỷ thuật đúc đồng tinh xảo nên sau 2000 năm âm thanh vẫn còn vang tốt. Ngoài ra còn có các nhạc khí hơi (kèn, sáo) và các loại đàn dây như: thập lục, tam thập lục, nhị ...